Mục
tiêu:
1. Phân tích được quá trình sản sinh
hồng cầu.
2. Trình bày được các đặc điểm chung
và chức năng của
hồng cầu.
3. Phân loại được nhóm máu hệ ABO và
hệ Rh.
4. Trình bày được các ứng dụng xác
định nhóm máu hệ ABO và truyền máu.
>>>>>>>>>>>>>DOWLOAD HERE>>>>>>>>>>>>>Bài giảng tham khảo Học viện Quân Y
1. QUÁ TRÌNH SẢN SINH HỒNG CẦU
Quá
trình sản sinh hồng cầu là quá trình tăng sinh và chín của dòng hồng cầu từ các
tế bào máu gốc vạn năng.
Tóm tắt chu trình hồng cầu trong cơ thể người
1.1.
Các giai đoạn sản sinh hồng cầu
Trong
những tuần đầu của thời kỳ bào thai, hồng cầu được sinh ra từ lá thai giữa.
Từ tháng thứ ba, quá trình sản sinh hồng cầu được thực hiện ở gan và lách. Từ
tháng thứ năm cho đến lúc sinh ra, tủy xương là nơi duy nhất tạo hồng cầu. Có
hai loại tủy xương, tủy đỏ và tủy vàng, chỉ có tủy đỏ mới có chức
năng tạo máu. Ở trẻ sơ sinh, toàn bộ các xương đều chứa tủy đỏ. Sau
đó, ở các xương dài, tủy dần dần bị nhiễm mỡ trở thành tủy vàng.
Sau 20 tuổi, tủy đỏ chỉ khu trú ở các xương dẹt như xương sống, xương
ức, xương sườn, xương sọ, xương chậu và một phần nhỏ xương dài (đầu
trên xương đùi và xương cánh tay).
Quá
trình sản sinh hồng cầu bắt đầu từ tế bào máu gốc vạn năng biệt hóa thành
tế bào dòng tủy ® tế bào định hướng dòng hồng cầu. Từ đây sẽ hình
thành tiền nguyên hồng cầu ® nguyên hồng cầu ưa base ® nguyên
hồng cầu đa sắc ® nguyên hồng cầu ưa acid ® hồng cầu
lưới ® hồng cầu.
Trong quá trình sản sinh, kích thước hồng cầu giảm dần, nhân đông đặc và bị đẩy
ra ngoài, hình thành hemoglobin.
1.2. Các chất cần thiết cho sản sinh hồng cầu
1.2.1. Vitamin B12
- Vai trò: vitamin B12 cần
thiết để biến đổi ribonucleotid thành deoxyribonucleotid, một trong những giai
đoạn quan trọng trong sự tạo thành AND duy trì sự trưởng thành bình thường của
hồng cầu.
- Chuyển hóa: vitamin B12 là một vitamin tan
trong nước có nhiều trong thức ăn có nguồn gốc động vật như thịt,
trứng, sữa, không có trong thức ăn có nguồn gốc thực vật. Lượng B12 cần thiết mỗi ngày là < 1 microgam, trong khi đó gan có khả năng dự trữ một lượng B12
khoảng 1000 lần nhiều hơn. Sau khi ăn vào, B12 sẽ kết hợp với yếu tố
nội tại của dạ dày để tạo thành hợp chất thích ứng cho sự hấp thu. Vitamin B12
được hấp thu ở ruột mà chủ yếu là hồi tràng.
- Bệnh lý liên quan: thiếu B12
sẽ ngăn chặn sự phân chia tế bào và sự trưởng thành của nhân dẫn đến ngưng biệt
hóa dòng hồng cầu, kích thước hồng cầu to nhưng giảm số lượng. Các tế bào
nguyên hồng cầu của tủy xương lớn hơn bình thường được gọi là đại hồng cầu sẽ
vào máu tuần hoàn. Chúng vẫn có khả năng chuyên chở O2, nhưng dễ bị
vỡ gây thiếu máu ác tính, thường gặp trong trường hợp bệnh nhân bị teo niêm mạc
dạ dày hoặc cắt bỏ dạ dày toàn bộ mà không tiêm B12 thường xuyên.
1.2.2. Acid folic
- Vai trò: acid folic cần thiết cho sự
trưởng thành các hồng cầu do tăng sự methyl hóa trong quá trình thành lập ADN.
- Chuyển hóa: acid folic là một
vitamin tan trong nước có nhiều trong rau cải xanh và mô động vật như não, gan,
thịt. Nhu cầu hàng ngày cần 50-100mg. Acid folic được hấp thu ở ruột mà
chủ yếu là hỗng tràng dưới thể monoglutamat.
- Bệnh lý liên quan: thiếu acid folic
sẽ gây ra thiếu máu với các nguyên hồng cầu khổng lồ giống như thiếu máu do
thiếu vitamin B12, chủ yếu do chế độ ăn không đủ, kém hấp thu, tiêu
chảy kéo dài.
1.2.3. Chất sắt
- Vai trò: sắt là một chất quan trọng
trong sự thành lập hemoglobin do sắt tham gia vào thành phần hem.
- Chuyển hóa: sắt có nhiều trong
thực phẩm có nguồn gốc động vật như thịt đỏ, phủ tạng và các loại
thực vật có màu xanh đậm. Nhu cầu sắt mỗi ngày khoảng 0,6mg. Ở phụ nữ do
mất máu trong chu kỳ kinh nguyệt nên nhu cầu chất sắt cao hơn (khoảng 1,3mg/ngày).
Sắt được hấp thu dưới dạng Fe++ (ferrous) hơn là dạng Fe+++
(ferric) chủ yếu ở tá tràng bằng cơ chế chủ động. HCl của dạ dày và vitamin
C có vai trò chuyển Fe+++ thành Fe++ tạo điều kiện
thuận lợi cho sự hấp thu. Sau khi hấp thu từ ruột, sắt nhanh chóng kết hợp với b-globulin
để tạo thành transferrin. Dưới dạng này, sắt kết hợp một cách lỏng lẻo với phân
tử globulin, và kết quả là nó dễ dàng phóng thích khi các mô cần. Chất sắt thừa
trong máu sẽ được dự trữ ở hầu hết các tế bào của cơ thể, đặc biệt trong tế bào
gan (60%). Tại gan, sắt kết hợp với apoferritin để tạo thành ferritin. Khi
lượng sắt trong huyết tương giảm thấp, sắt sẽ được giải phóng khỏi
ferritin.
- Bệnh lý liên quan: thiếu sắt sẽ gây
thiếu máu nhược sắc, hồng cầu nhỏ. Nguyên nhân thường do thiếu cung cấp,
kém hấp thu, tăng nhu cầu (ví dụ phụ nữ có thai) và chảy máu rỉ rả
kéo dài.
1.2.4. Các chất khác
Ngoài các chất trên, quá trình sản
sinh hồng cầu còn có sự tham gia của các amino acid, các vitamin nhóm B khác và
các yếu tố vi lượng như mangan, cobalt…
1.3. Điều hòa sản sinh hồng cầu
Điều hòa sản sinh hồng cầu chủ yếu
bằng cơ chế thể dịch:
- Erythropoietin:
+
Nguồn gốc: erythropoietin
có nguồn gốc chủ yếu từ tế bào biểu mô ống thận, phần nhỏ còn lại là từ
gan.
+ Bản chất: glycoprotein.
+ Tác dụng: kích thích sự biệt hóa của các tế bào tiền
thân dòng hồng cầu và làm tăng quá trình tổng
hợp hemoglobin trong các tế bào đã biệt hóa. +
Điều hòa bài tiết: khi nồng độ oxy ở mô giảm như trong trường hợp thiếu
máu, lưu lượng máu thấp hoặc một bệnh lý hô hấp, sẽ kích thích
thận sản sinh erythropoietin do đó tăng tạo hồng cầu; và ngược lại khi oxy mô
tăng, ức chế tạo erythropoietin, do đó giảm tạo hồng cầu.
Hình 4.1. Điều hòa bài tiết erythropoietin
- Một số hormon khác cũng tham gia vào
quá trình tạo hồng cầu:
+ Testosteron của tinh hoàn: có thể
làm tăng tạo erythropoietin hoặc kích thích trực tiếp tế bào gốc biệt hóa thành
tế bào dòng hồng cầu.
+ GH của tuyến yên: gián tiếp làm tăng
tạo erythropoietin qua somatomedin của gan.
+ LH của tuyến yên: làm tăng tạo hồng
cầu vì tăng tiết testosteron và tăng tạo erythropoietin.
+ Thyroxin của tuyến giáp: cũng làm
tăng tạo erythropoietin.
2.
ĐẶC
ĐIỂM CHUNG CỦA
HỒNG CẦU
2.1 Hình dạng
Hồng cầu là những tế bào hình đĩa, lõm
hai mặt. Đường kính của hồng cầu khoảng 7-8mm, chiều dày ở trung tâm là 1mm và ở
ngoại vi là 2-3mm. Đặc điểm hình đĩa lõm hai mặt thích
hợp với khả năng vận chuyển khí của hồng cầu vì:
- Làm tăng diện tích tiếp xúc của hồng
cầu.
- Làm tăng tốc độ khuếch tán khí.
- Làm cho hồng cầu có thể biến dạng dễ
dàng khi xuyên qua các mao mạch có đường kính rất nhỏ.
2.2. Thành phần cấu tạo
Hồng cầu là một tế bào nên về mặt cấu tạo cũng gồm hai thành
phần: màng hồng cầu và bào tương. Tuy nhiên, hồng cầu không có nhân, rất ít bào
quan nên bào tương chủ yếu chỉ chứa hemoglobin.
2.2.1. Màng hồng cầu
Màng hồng cầu có một số tính chất quan
trọng sau:
- Màng hồng cầu là một
màng bán thấm có nhiều lỗ nhỏ đường kính khoảng 3-4A0: màng không
cho các chất keo thấm qua (protein, lipid). Trong khi tính thấm với các ion,
muối khoáng cũng không đồng đều: các ion H+, OH-, HCO3-
và một số ion hữu cơ thấm qua dễ dàng; các ion K+, Na+,
Ca++ thấm qua rất ít và chậm, hoặc không qua được (Ca++,
Mg++).
+ Do tính thấm này, hồng cầu không
thay đổi hình dạng khi đặt trong dung dịch đẳng trương. Trong dung dịch ưu
trương, nước trong hồng cầu thấm ra ngoài, làm hồng cầu teo lại. Trong dung
dịch nhược trương, nước từ ngoài thấm vào hồng cầu làm hồng cầu trương to lên
và cuối cùng vỡ ra gây tan máu.
Hồng cầu bắt đầu vỡ Hồng cầu vỡ hoàn toàn
(sức bền tối thiểu) (sức bền tối đa)
Máu toàn phần NaCl 4,6o/oo NaCl 3,4o/oo
Hồng cầu rửa NaCl 4,8o/oo NaCl 3,6o/oo
Hồng cầu trong máu
động mạch có độ bền cao hơn trong máu tĩnh mạch.
+ Trong trường hợp
số lỗ trên màng tăng (hồng cầu hình liềm), quá trình trao đổi chất sẽ tăng, làm
hồng cầu mất nhiều năng lượng nên dễ bị vỡ.
- Lớp áo glycocalyx của hồng cầu được
bao bởi nhiều acid sialic: các phân tử acid sialic tạo một lớp điện tích âm bên
ngoài hồng cầu, đẩy các hồng cầu làm chúng không dính vào nhau. Trong xét
nghiệm đo tốc độ lắng máu, hiện tượng này làm các hồng cầu lắng chậm.
Tốc độ máu lắng bình thường ở người trưởng thành sau 1 giờ: nam là
< 15mm, nữ là < 20mm. Trong một số trường hợp bệnh lý về cấu tạo màng, hoặc
do dùng một số thuốc có khả năng kết hợp với acid sialic, làm mất điện tích âm
của một số hồng cầu nên các hồng cầu dễ dính vào nhau; hoặc trong các trường
hợp viêm, hàm lượng protein thay đổi làm cho cân bằng điện tích protein thay
đổi, nên điện tích màng hồng cầu biến đổi theo, hồng cầu dễ bị kết dính lại
với nhau hơn nên tốc độ lắng máu sẽ tăng.
- Màng hồng cầu có rất nhiều kháng nguyên:
kháng nguyên màng hồng cầu chính là những phân tử protein xuyên màng, thường ở
dưới dạng glycoprotein. Người ta đã tìm thấy khoảng 30 loại kháng nguyên thường
gặp và hàng trăm kháng nguyên hiếm gặp khác. Các kháng nguyên màng hồng cầu tạo
thành nhóm máu thực hiện chức năng tương tác miễn dịch với các kháng thể. Khi
các kháng nguyên và kháng thể tương ứng gặp nhau sẽ gây ra hiện tượng ngưng kết
hồng cầu. Tuy nhiên, phần lớn kháng nguyên có tính miễn dịch yếu nên không gây
tai biến khi truyền máu, chúng thường được dùng để nghiên cứu di truyền gen
nhằm xác định huyết thống. Hai nhóm kháng nguyên quan trọng có thể gây các phản
ứng trong truyền máu là hệ thống ABO và hệ thống Rh.
- Lớp trong cùng màng hồng cầu có nhiều protein ngoại vi bám dính: đó là
những sợi vi thể, những ống vi thể và những phân tử calmodulin, protein gắn
hemoglobin, các enzym. Các phân tử calmodulin điều hòa hoạt động các enzym ở
màng. Hệ thống enzym màng hồng cầu vô cùng phong phú và thực hiện nhiều chức
năng quan trọng khác nhau.
+ Các enzym tham gia chuyển hóa
glucose tạo năng lượng cho hồng cầu hoạt động như G6PD (glucose 6 phosphat
dehydrogenase) và nhiều enzym khác: hồng cầu là một tế bào chứa oxy nên các cấu
trúc của nó thường xuyên có nguy cơ bị oxy hóa, năng lượng sinh ra sẽ giúp bảo
vệ hồng cầu. Do vậy, giảm hoạt tính các enzym này sẽ dẫn đến giảm khả năng
chống oxy hóa và dập gốc tự do của hồng cầu.
+ Các enzym tham gia chuyển hóa
2,3-DPG (2,3 diphospho glycerat) như pyruvate kinase, diphosphoglycerat
mutase…: 2,3-DPG có ảnh hưởng quan trọng đến ái lực của hemoglobin với oxy, do
vậy giảm hoạt tính của các enzym này sẽ dẫn đến thay đổi ái lực của hemoglobin
với oxy.
+ Enzym
tham gia vào quá trình vận chuyển CO2 là CA (carbonic anhydrase): CA
trong hồng cầu làm tăng hàng nghìn lần vận tốc của phản ứng giữa CO2
và H2O tạo ra H2CO3. Nhờ đó, CO2 được
vận chuyển dưới dạng ion bicarbonat (HCO3-) từ các mô về
phổi.
2.2.2. Hemoglobin
Hemoglobin (Hb) là một protein màu nên
còn gọi là huyết sắc tố, trọng lượng phân tử 68.000, có khả năng chuyên chở
chất khí. Hemoglobin chiếm khoảng 32-34% trọng lượng tươi và trên 90% trọng
lượng khô của hồng cầu. Nồng độ hemoglobin bình thường trung bình từ
14-16g/100mL máu. Mỗi hồng cầu có chứa khoảng 34-36mg
hemoglobin.
* Cấu tạo và phân loại hemoglobin:
Hemoglobin được cấu tạo gồm hai thành
phần là 1 phân tử globin và 4 nhân hem.
- Hem: là một sắc tố đỏ giống nhau ở
tất cả các loài.
- Phân tử globin: là một protein không
màu khác nhau tùy theo loài. Mỗi phân tử globin gồm 4 chuỗi polypeptid giống
nhau thành từng cặp. Ở người có 4 loại chuỗi polypeptid được ký hiệu là α, β,
γ, δ; sự tổ hợp của các chuỗi polypeptid này tạo ra các loại hemoglobin khác
nhau. Bình thường, hemoglobin chủ yếu ở người trưởng thành là HbA và hemoglobin
ở bào thai là HbF. Khi đứa trẻ ra đời HbF được thay thế dần thành HbA, tỷ lệ
các loại hemoglobin ở người trưởng thành bình thường: 95% HbA1 (2
chuỗi α, 2 chuỗi β), 2% HbA2 (2 chuỗi α, 2 chuỗi δ), 2% HbF (2 chuỗi
α, 2 chuỗi γ). Thứ tự các acid amin
trong chuỗi polypeptid của phân tử hemoglobin đã được xác định trong mã gen di
truyền.
Khi đột biến xảy ra trên các gen qui
định trình tự các acid amin trong chuỗi polypeptid của phân tử hemoglobin sẽ xảy
ra sự sản xuất các hemoglobin không bình thường, ví dụ HbS, HbC, HbE, HbJ… Có
những loại phân tử Hb bất thường nhưng không gây nguy hiểm, tuy nhiên có một số
loại gây ra các trường hợp bệnh lý, ví dụ: bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm do
trong máu có HbS, bệnh thalassemia do đột biến làm giảm tổng hợp chuỗi α hoặc
β.
* Sự
tổng hợp hemoglobin:
Tổng hợp hemoglobin bắt đầu từ giai
đoạn tiền nguyên hồng cầu đến giai đoạn hồng cầu lưới. Quá trình tổng hợp diễn
ra theo những bước sau:
- Acid acetic được biến đổi trong chu
trình Krebs thành succinyl CoA.
- 2 succinyl CoA kết hợp với 2 phân tử
glycin để thành lập hợp chất pyrrol.
- 4 phân tử pyrrol sẽ kết hợp lại
thành protoporphyrin IX.
- 1 phân tử protoporphyrin IX kết hợp với sắt để tạo thành phân tử hem.
- 1 heme kết hợp với một chuỗi
polypeptid của globin để tạo chuỗi hemoglobin.
- 4 chuỗi hemoglobin kết hợp với nhau
tạo thành hemoglobin.
* Sự thoái biến hemoglobin:
Đời sống trung bình của hồng cầu trong
máu ngoại vi khoảng 120 ngày.
Các hồng
cầu già sẽ bị phá vỡ trong hệ thống võng nội mô như
gan, lách. Khi đó hemoglobin được tách ra
thành globin và hem.
- Globin được chuyển hóa như các
protein khác trong cơ thể.
- Hem được phân hủy như sau: đầu tiên,
sắt được tách ra và giải phóng vào huyết tương, transferrin sẽ vận chuyển sắt
đến tủy xương để tạo hồng cầu mới, hoặc đến gan và các tổ chức khác để dự trữ
dưới dạng ferritin. Phần còn lại của heme biến thành bilirubin có màu vàng.
Bilirubin vào máu và được đưa đến gan. Tại gan, bilirubin kết hợp với acid
glucuronic rồi bài tiết qua mật ra ngoài.
2.3.
Số lượng hồng cầu và các chỉ số hồng cầu
- Số lượng hồng cầu trong máu ngoại vi
ở người Việt Nam trưởng thành bình thường:
Nam :
5,11 M ± 0,3/mm3 máu
Nữ :
4,6 M ± 0,25/mm3 máu
Số lượng hồng cầu phụ thuộc vào lượng oxy đến mô, mức độ hoạt
động, lứa tuổi…Bình thường tủy xương sản xuất mỗi ngày từ 0,5-1% hồng cầu, để
thay thế 1% hồng cầu chết mỗi ngày. Khi có nhu cầu, tủy xương có thể tăng sản
xuất gấp 7-8 lần so với bình thường. Tình trạng tăng sinh đáp ứng này được biểu
hiện bằng số lượng tế bào dòng hồng cầu trong tủy tăng, thời gian trưởng thành
rút ngắn, đưa ra máu ngoại vi sớm những hồng cầu có kích thước lớn, đôi khi còn
đa sắc, kiềm (hồng cầu còn nhân). Số lượng hồng cầu thay đổi trong các trường
hợp bệnh lý:
+ Tăng trong bệnh đa hồng cầu, ngạt, mất nước nhiều. Ngoài
ra, trong nhiều bệnh lý của hệ tuần hoàn gây thiếu oxy ở mô, sẽ dẫn đến tăng
sản xuất hồng cầu để đảm bảo chức năng hô hấp.
+ Giảm trong thiếu máu do tán huyết, xuất huyết; suy thận;
suy tủy…
- Tỷ lệ hồng cầu lưới: tỷ lệ này thường tăng trong thiếu máu
tán huyết.
- Các chỉ số hồng cầu:
+ MCV (thể tích trung bình hồng cầu): là chỉ số đánh giá thể
tích hồng cầu, MCV thấp là hồng cầu nhỏ, MCV cao là hồng cầu to.
MCV(femtolit)=(hematocrit x 1000)/số lượng hồng cầu (triệu/mm3).
+ MCH (lượng Hb trung bình hồng cầu): là chỉ số đánh giá lượng
Hb bên trong hồng cầu. MCH thấp là nhược sắc, MCH cao
có thể là ưu sắc.
MCH(pg)=[Hb (g/100mL) x 10]/số lượng hồng cầu
(triệu/mm3)
+ MCHC (nồng độ Hb trung bình hồng cầu): là tỷ lệ
giữa Hb và Hct. MCHC thấp là nhược sắc, MCHC cao có thể là hồng cầu nhỏ.
MCHC(g/100mL)=Hb (g/100mL)/Hct
3. CHỨC NĂNG CỦA HỒNG CẦU
3.1 Chức năng hô hấp của hồng cầu
Chức năng hô hấp là chức năng chính
của hồng cầu, được thực hiện nhờ hemoglobin.
3.1.1. Hemoglobin vận chuyển oxy từ phổi đến các mô
- Sự tạo thành oxyhemoglobin ở phổi:
sau khi hít vào, oxy được gắn với Fe++ trong thành phần hem, khi đó
hemoglobin trở thành oxyhemoglobin (HbO2). Phản ứng tạo thành oxyhemoglobin
xảy ra rất nhanh trong hồng cầu và tùy thuộc vào phân áp oxy.
Một phân tử Hb có thể gắn với 4 phân
tử O2, sự gắn với một phân tử O2 đầu tiên vào Hb làm tăng
ái lực của Hb với phân tử O2 tiếp theo. Lưu ý: đây là phản ứng kết hợp O2
vào nguyên tử Fe, không phải là phản ứng oxy hóa, nên Fe vẫn có hóa trị 2 (Fe++).
Vì một phân tử Hb gắn tối đa 4 phân tử
O2 nên 1 gam Hb gắn được 1,34mL O2. Như vậy, trung bình
100mL máu, có 14-16g Hb, gắn được tối đa khoảng 20mL O2.
- Sự phân ly oxyhemoglobin ở mô: khi
đến mô, hemoglobin sẽ nhả oxy cho mô. Phản ứng phân ly oxyhemoglobin xảy ra phụ
thuộc ái lực của Hb với O2. Các yếu tố làm giảm ái lực, tăng phân ly
oxyhemoglobin để cung cấp O2 cho mô:
+ Phân áp O2 giảm.
+ CO2 tăng, pH giảm.
+ Nhiệt độ tăng.
+ Chất 2,3-DPG
(2,3-diphosphoglycerate) tăng trong hồng cầu (2,3-DPG tăng khi lên vùng cao,
khi hoạt động).
+ Hợp chất phosphat thải ra lúc hoạt
động.
- Liên hệ bệnh lý:
+ Trong trường hợp máu tiếp xúc với
nhiều loại thuốc khác nhau, và nhiều tác nhân oxy hoá khác nhau, ion Fe++
trở thành Fe+++, khi đó Hb sẽ chuyển thành metHb không có khả năng
vận chuyển O2 nữa. MetHb có màu sậm và chất này có nhiều trong tuần
hoàn sẽ gây ra triệu chứng xanh tím (cyanosis).
+ Khí CO (oxide
carbon), một sản phẩm của sự cháy không hoàn toàn carbon, có trong khói của
những vụ cháy nổ, các động cơ nổ, than đốt... có ái lực rất mạnh với hemoglobin
(gấp 250-350 lần so với oxy), rất dễ kết hợp với hemoglobin trong máu để thành
HbCO (carboxyhemoglobin) gây nên hội chứng thiếu oxy ở máu, máu có màu đỏ anh
đào. Tùy theo nồng độ khí CO trong không khí mà nồng độ HbCO được hình thành
trong máu sẽ tăng cao và các triệu chứng nhiễm độc sẽ nặng dần lên.
3.1.2.
Hemoglobin vận chuyển CO2 từ mô về phổi
Một phần nhỏ, khoảng 20% CO2 trong máu được kết
hợp Hb để tạo carbaminhemoglobin. CO2 kết hợp vào Hb qua các nhóm
amin (NH2) của globin. Đây là phản ứng thuận nghịch còn gọi là phản
ứng carbamin.
Hb + CO2
Û HbCO2
(R – NH2 + CO2 Û R – NH
– COOH)
Phản ứng thuận nghịch này xảy ra theo
chiều nào tùy thuộc vào phân áp CO2. Ở các mô, phân áp CO2
cao, phản ứng xảy ra theo chiều thuận. Ngược lại, ở phổi phân áp CO2
thấp, HbCO2 sẽ phân ly và CO2 được thải ra khỏi cơ thể
qua các động tác hô hấp.
3.2. Chức năng miễn dịch hồng cầu
Hồng cầu có vai trò miễn dịch do:
- Giữ lấy các phức hợp kháng nguyên - kháng thể - bổ thể tạo
thuận lợi cho quá trình thực bào.
- Các kháng nguyên màng hồng cầu là đặc trưng của các nhóm
máu.
3.3. Chức năng điều hòa thăng bằng toan kiềm
Hb trong hồng cầu là một hệ thống đệm
quan trọng. Ngoài ra, hồng cầu còn tạo ra HCO3-
trong quá trình vận chuyển CO2, do vậy đã góp phần tạo ra
hệ đệm bicarbonat.
3.4.
Chức năng tạo áp suất keo
Những thành phần cấu tạo của hồng cầu
chủ yếu là protein nên góp phần tạo áp suất keo của máu.
4. NHÓM MÁU
4.1.
Định nghĩa
Năm 1900, Landsteiner nhận thấy có sự
ngưng kết hồng cầu khi trộn máu của các cá thể trong cùng một loài với nhau. Từ
đó ông đã phát hiện ra có kháng nguyên trên màng hồng cầu và kháng thể trong
huyết thanh và ông đã phân loại nhóm hồng cầu trên người. Trong y học, người
thường gọi nhóm hồng cầu là nhóm máu.
Như vậy, nhóm máu là kháng nguyên nằm
trên màng hồng cầu. Các loại máu được phân nhóm dựa theo sự hiện diện của các
kháng nguyên đó. Các kháng nguyên thường có bản chất là glycoprotein.
Các kháng thể nhóm máu có thể là
kháng thể tự nhiên (IgM) nhưng cũng có thể là kháng thể miễn dịch (IgG). Các
kháng thể miễn dịch khác với kháng thể tự nhiên ở chỗ chỉ hình thành khi có
tiếp xúc với kháng nguyên; có khả năng khuếch tán mạnh, qua được màng
nhau thai nên có thể từ mẹ sang thai nhi; có hoạt tính mạnh ở 37oC
với cường độ, hiệu giá và độ nhạy cao hơn kháng thể tự nhiên, nếu bị kích
thích lập lại (tiếp xúc kháng nguyên) thì hoạt tính sẽ càng cao, nhưng nếu
không lặp lại thì sẽ giảm dần đến mất hẳn.
4.2. Phân loại nhóm máu
Sau này, ngoài những kháng nguyên mà
Landsteiner đã tìm ra, người ta còn tìm thấy nhiều kháng nguyên khác có trên
màng hồng cầu và từ đó phân ra nhiều hệ thống nhóm máu: ABO, Rh, MNSs, Kell,
Kidd, Duffy, Lewis… Trong đó, hai hệ
thống nhóm máu có nhiều ứng dụng trên lâm sàng là ABO và Rh.
4.2.1.
Các nhóm máu hệ ABO
* Các kháng nguyên của nhóm máu hệ ABO:
Các kháng nguyên nhóm hồng cầu hệ ABO
là các chất mucopolysaccharid gồm kháng nguyên A và B. Các kháng nguyên này là
sự thể hiện của các gen A và B trên bề mặt hồng cầu. Kháng nguyên A và B có thể
phát hiện được từ lúc bào thai 5-6 tuần. Trong suốt thời kỳ bào thai lượng
kháng nguyên tăng không đáng kể. Sau khi sinh, lượng kháng nguyên tăng dần và
đạt đến mức ổn định sau 2-4 năm và tồn tại hằng định suốt đời.
Dựa vào sự có mặt hay không có mặt của các kháng nguyên A và
B trên màng hồng cầu, Landsteiner phân loại thành 4 nhóm máu: A, B, AB và O
(bảng 4.1). Ở người Việt Nam, khoảng 48% là nhóm máu O, 28% nhóm máu
B, 20% nhóm máu A và 4% nhóm máu AB.
Các nhóm phụ của hệ ABO: nhóm máu A có thể chia làm 2 nhóm phụ
là A1 và A2. Hồng cầu A1 phản ứng mạnh với
anti-A, còn hồng cầu A2 phản ứng yếu hơn. 80% nhóm máu A hay AB là
thuộc loại A1 và 20% là A2. Tương tự, nhóm máu B cũng có
các dưới nhóm. Tuy nhiên, việc xác định các các nhóm phụ cũng ít có giá trị
trong thực hành lâm sàng.
Bảng 4.1. Thành phần và genotype của nhóm máu hệ ABO
Nhóm máu
|
Kháng nguyên trên
màng hồng cầu
|
Kháng thể trong huyết thanh
|
Genotype
|
A
|
A
|
Anti-B (b)
|
OA, AA
|
B
|
B
|
Anti-A (a)
|
OB, BB
|
AB
|
A, B
|
Không có anti-A và anti-B
|
AB
|
O
|
Không có A và B
|
Anti-A và anti-B
|
OO
|
* Các kháng thể của nhóm máu hệ ABO:
Ở trẻ sơ sinh hầu như không tìm thấy sự có mặt các kháng thể
nhóm máu. 2-8 tháng sau, cơ thể trẻ bắt đầu sản xuất các kháng thể trong huyết thanh
với nồng độ tăng dần và đạt tối đa vào khoảng 8-10 tuổi. Sau đó, giảm dần theo
tuổi.
Hình 4.2. Nồng độ anti-A và anti-B trong huyết thanh người
(Nguồn: Guyton A.C. (2006), Textbook
of Medical Physiology).
Các kháng thể anti-A, anti-B thường là kháng thể tự nhiên
(IgM) nhưng cũng có thể là kháng thể miễn dịch (IgG). Các kháng thể miễn dịch
anti-A, anti-B, mà đặc biệt là anti-A, có thể gặp ở một số người nhóm máu O, vì
vậy những người này được gọi là người có nhóm máu O nguy hiểm, không dùng để
truyền phổ thông như các nhóm máu O thông thường. Các kháng thể miễn dịch
cũng có thể gặp ở những người nhóm máu A hoặc B nhưng hiếm hơn.
* Phương pháp định nhóm máu hệ
ABO:
- Nghiệm pháp hồng cầu (định nhóm xuôi): đây là nghiệm pháp trực tiếp nhằm xác
định kháng nguyên hệ ABO trên hồng cầu (Nghiệm pháp Beth-Vincent). Nguyên tắc
phương pháp này là sử dụng những kháng huyết thanh đã chuẩn hóa, chứa kháng thể
anti-A, anti-B và anti-A, B trộn với máu cần thử, dựa trên phản ứng ngưng kết
với hồng cầu để định nhóm máu người thử.
- Nghiệm pháp huyết thanh (định nhóm ngược): nguyên tắc là sử dụng những hồng cầu
chứa kháng nguyên đã biết, đem làm phản ứng ngưng kết với huyết thanh của người
cần định nhóm máu, nhằm xác định sự có mặt hay không có mặt của kháng thể
anti-A, anti-B trong huyết thanh. Từ đó suy ra được nhóm máu người thử.
Để đảm bảo chính xác khi định nhóm máu ABO nên:
- Tiến hành đồng thời cả 2 nghiệm pháp
nói trên và kết quả phải khớp nhau, nếu không phải dùng thêm kỹ thuật cao hơn
để xác định.
- Huyết thanh mẫu phải đủ anti-A,
anti-B, anti-A, B. Hồng cầu mẫu phải đủ hồng cầu A, B, O.
- Huyết thanh mẫu phải đạt đủ độ nhạy,
độ mạnh và hiệu giá. Hồng cầu mẫu phải là hồng cầu mới, đã rửa sạch 3 lần bằng
nước muối sinh lý (NaCl 9‰) rồi pha thành huyền dịch 5-10‰.
Bảng 4.2. Bảng kết quả định nhóm máu hệ ABO
Nghiệm pháp hồng cầu
(dùng huyết thanh
mẫu)
|
Nghiệm pháp huyết
thanh
(dùng hồng cầu mẫu)
|
Nhóm máu
|
||||
Anti-A
|
Anti-B
|
Anti-A,B
|
HC A
|
HC B
|
HC O
|
ABO
|
+
|
-
|
+
|
-
|
+
|
-
|
A
|
-
|
+
|
+
|
+
|
-
|
-
|
B
|
+
|
+
|
+
|
-
|
-
|
-
|
AB
|
-
|
-
|
-
|
+
|
+
|
-
|
O
|
4.2.2. Hệ Rhesus
Năm 1904, Landstainer tìm thấy một
loại kháng nguyên ở hồng cầu khỉ Maccacus Rhesus, ông đặt tên cho kháng nguyên
này là yếu tố Rh. Sau đó, người ta nhận thấy ở một số người hồng cầu chứa đựng
yếu tố Rh, và ở một số người khác thì không. Người ta qui ước, máu người nào
hồng cầu có chứa yếu tố Rh gọi là Rh+, còn không thì gọi là Rh-.
Yếu tố Rh là một hệ thống gồm 13 kháng nguyên trong đó yếu tố D là mạnh nhất,
có ý nghĩa quan trọng trong truyền máu. Người Việt Nam hầu hết là Rh+ (99,96%).
Các kháng thể hệ Rh không có sẵn trong
máu, chỉ xuất hiện khi có sự tiếp xúc với kháng nguyên. Vì vậy, người ta gọi
kháng thể hệ Rh là kháng thể miễn dịch. Trong các kháng thể của hệ Rh, anti-D
là kháng thể quan trọng nhất còn các kháng thể khác yếu hơn nhiều và mức độ gây
phản ứng cũng rất thấp. Anti-D là một loại IgG.
Những phản ứng ngưng kết do Rh thường
xảy ra trong hai trường hợp:
- Người có máu Rh- nhận
nhiều lần liên tục máu Rh+.
- Mẹ có nhóm máu Rh- nhiều
lần mang thai có máu Rh+.
4.2.3. Các hệ thống nhóm máu khác
Nhiều
loại protein khác trên màng hồng cầu tạo các kháng nguyên ngoài A, B, O, Rh dẫn
đến hình thành các nhóm máu như: MN, Kell, Lewis, Duffy, Kidd, Doego, Lutheran… Những
yếu tố kháng nguyên này không có tính nguyên cao, tức là gây ra phản ứng truyền
máu rất yếu, chậm hoặc thậm chí không có phản ứng.
4.3.
Ứng dụng nhóm máu trong truyền máu
4.3.1.
Chỉ định
Chỉ định truyền máu trong những trường
hợp: giảm thể tích máu, điều trị thiếu máu, cung cấp các thành phần của máu…
4.3.2.
Nguyên tắc truyền máu
Từ những hiểu biết về nhóm máu trong
hệ thống nhóm máu, người ta đã đề ra những nguyên tắc để tránh xảy ra những tai
biến trong truyền máu:
- Phải truyền máu cùng nhóm tức là không
để cho kháng nguyên và kháng thể tương ứng gặp nhau trong máu người nhận.
Ví dụ, A truyền cho A, B truyền cho B…
- Nhưng nhiều khi không có máu cùng
nhóm để truyền, nên người ta có thể cho truyền khác nhóm theo nguyên tắc: kháng
nguyên trên màng hồng cầu người cho không bị ngưng kết bởi kháng thể tương ứng
trong huyết tương người nhận. Như vậy, có 2 trường hợp đáng lưu ý:
+
Nhóm O không có kháng nguyên trên màng hồng cầu, nên không bị kháng
thể trong huyết tương người nhận làm ngưng kết. Do đó nhóm O có thể truyền cho
cả 3 nhóm và cho chính nó.
+ Nhóm AB không
có kháng thể trong huyết tương, nên không thể ngưng kết bất kỳ hồng cầu người
cho nào. Do đó nhóm AB có thể nhận máu của cả 3 nhóm và của chính nó.
Hình 4.3. Sơ đồ truyền máu
Khi truyền máu khác nhóm, nguyên tắc
không đề cặp đến vấn đề kháng thể trong huyết tương người cho gây ngưng kết
hồng cầu người nhận. Nguyên nhân là vì kháng thể được truyền vào với lượng rất
nhỏ, nên bị pha loãng ngay trong máu người nhận, không đủ ngưng kết hồng cầu
người nhận. Ngoài ra, kháng thể còn có thể bị trung hòa bởi những kháng nguyên
có trong các tế bào và các dịch của cơ thể. Tuy nhiên, cần lưu ý khi truyền máu
khác nhóm, mỗi lần truyền không được vượt quá 250mL và phải truyền thật chậm.
4.3.3. Phản ứng chéo
Phản ứng chéo là một kỹ thuật rất cần
thiết áp dụng trước khi truyền máu dù đã thử nhóm máu hệ ABO và Rh. Kỹ thuật
như sau:
- Lấy một giọt hồng cầu hoặc máu người
cho và một ít huyết thanh của máu người nhận trộn đều với nhau, quan sát kỹ xem
hiện tượng ngưng kết xảy ra không.
- Rồi trộn lẫn dịch hồng cầu của người
nhận với huyết thanh người cho, quan sát xem có hiện tượng ngưng kết không.
Nếu không có hiện tượng ngưng kết xảy ra, có thể xem như hai
máu không tương kỵ và truyền được. Nếu thấy ngưng kết là hai loại máu tương kỵ
nhau không truyền được. Phương pháp
này tránh nhầm lẫn khi truyền máu và phát hiện những kháng thể bất thường.
4.3.4. Phản ứng trong truyền máu
-
Những phản ứng không gây tán huyết: sốt, rét run, dị ứng, lây truyền các mầm bệnh qua máu truyền
vào.
-
Những phản ứng gây tán huyết: phản ứng gây tán huyết trong truyền máu có thể do 2 nguyên nhân:
+ Nguyên nhân miễn dịch: không hòa hợp kháng nguyên và kháng thể thuộc hệ nhóm máu
hồng cầu; sẽ gây ra phản ứng kết hợp giữa kháng nguyên và kháng thể tương ứng
trong máu tuần hoàn người nhận, dẫn tới tiêu hủy hồng cầu (tán huyết).
+ Nguyên nhân ngoài miễn dịch: có thể do điều kiện bảo quản máu không tốt (nhiệt
độ), dung dịch giữ máu không đủ nồng độ đường dextrose, dung dịch chống đông
pha chế không đúng nồng độ và pH quy định. Ngoài ra, hồng cầu cũng có thể bị vỡ
khi truyền với áp lực quá cao. Ví dụ: khi truyền máu qua một kim quá nhỏ với
tốc độ nhanh, hồng cầu có thể bị phá hủy nếu mắc bệnh thiếu men hoặc những
trạng thái có myoglobin máu, myoglobin niệu từ trước.